Dục Đức là ai? Xót thương ông Vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam

Bạn đang xem bài viết Dục Đức là ai? Xót thương ông Vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam tại Mas.edu.vn bạn có thể truy cập nhanh thông tin cần thiết tại phần mục lục bài viết phía dưới.

Trong lịch sử Việt Nam, có những nhân vật vĩ đại đã gắn liền với những bi kịch và số phận bi thảm. Trong số đó, việc người ta nhắc đến cái tên “Dục Đức” không thể không khiến chúng ta cảm thấy xót xa. Trở thành vua triều Nguyễn vào năm 1885, ông Vua Dục Đức đã trải qua những khó khăn và biến cố trong cuộc đời mà ít ai có thể ngờ đến. Ông là ai và tại sao ông lại rơi vào cảnh đau thương như thế? Đó chính là câu chuyện của một người vua đáng thương nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Ít ai biết rằng, lịch sử triều Nguyễn Việt Nam có một ông Vua chỉ lên ngôi được 3 ngày và có số phận vô cùng bi thảm. Đó là Vua Dục Đức. Cùng Mas.edu.vn tìm hiểu Dục Đức là ai và cuộc đời, thân thế của vị Vua này nhé!

Dục Đức là ai?

Dục Đức là vị Vua thứ năm của triều đại nhà Nguyễn. Vua Dục Đức tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau được Vua Tự Đức đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông lên ngôi Vua ngày 19/7/1883, nhưng tại vị chỉ được 3 ngày, ngắn nhất trong số 13 vị hoàng đế của triều Nguyễn.

Ông được Vua Thành Thái truy tôn Miếu hiệu là Cung Tông, Thụy hiệu là Khoan nhân Duệ triết Tĩnh minh Huệ hoàng đế. Dục Đức là tên gọi khi ông còn ở Dục Đức Đường.

Dục Đức là ai? Xót thương ông Vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam

Tiểu sử Vua Dục Đức

Vua Dục Đức sinh năm nào?

Vua Dục Đức sinh ngày 23 tháng 2 năm 1852. Một số tài liệu khác ghi chép rằng ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (tức 11 tháng 2 năm 1853). Dục Đức được Vua Tự Đức nhận làm con nuôi năm 17 tuổi.

Vua Dục Đức mất năm nào?

Vua Dục Đức mất ngày 6 tháng 10 năm 1883, Giờ Thìn (7 – 9 giờ), hưởng dương 32 tuổi. Lăng của Vua Dục Đức là An Lăng, tại làng An Cựu, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.

Dục Đức là ai?

Vua Dục Đức quê ở đâu?

Vua Dục Đức quê ở Huế. Nói về ngai vàng triều Nguyễn sau khi Vua Tự Đức băng hà (19/7/1883), chỉ trong bốn tháng (từ tháng 7 đến tháng 11/1883) đã ba lần đổi chủ: Dục Đức – Hiệp Hòa – Kiến Phúc. Vì thế, bấy giờ ở Huế lan truyền hai câu thơ:

“Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết

Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường.”

Nghĩa là “Một sông, hai nước, lời khó nói. Bốn tháng, ba Vua, điềm chẳng lành”.

Thân thế và cuộc sống ban đầu của Vua Dục Đức

Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Chân. Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (con trai thứ tư của Vua Thiệu Trị) và bà Trần Thị Nga.

Xem thêm:   Baking soda mua ở đâu? Công dụng thần kì của baking soda

Năm 17 tuổi, ông được Vua Tự Đức chọn làm con nuôi. Vốn dĩ Vua Tự Đức có tới 103 người vợ nhưng lại không có con nối dõi, nên đã nhận ba người cháu làm con nuôi. Trong số đó, người lớn nhất là Nguyễn Phúc Ưng Chân. Đến năm 1870, Ưng Chân được chọn làm Hoàng trưởng tử.

Dục Đức là ai?

Dục Đức được Vua Tự Đức cho xây dựng phòng riêng để ăn ở, học tập. Vua giao ông cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên trông nom dạy bảo. Nơi học tập của Vua Dục Đức về sau được gọi là Dục Đức Đường. Năm 1883, ông được phong làm Thụy Quốc Công.

Vị Vua 3 ngày?

Ngày 15 tháng 7 năm 1883, Vua Tự Đức lâm trọng bệnh, cần tìm người nối ngôi trong 3 người con nuôi. Người con thứ 3 là Nguyễn Phúc Ưng Đăng vốn được cho là người mà Vua cha muốn truyền ngôi nhất. Nhưng thời điểm bấy giờ, đất nước đang rối ren do bị Pháp xâm lược, Ưng Đăng lại quá nhỏ tuổi.

Lúc này, Vua Tự Đức buộc phải ban chiếu chỉ, chọn Thụy Quốc Công Nguyễn Phúc Ưng Chân – người con nuôi lớn tuổi nhất để nối ngôi nhằm chăm lo chính sự. Dù cho Ưng Chân ham chơi, phóng túng, thường bị Vua Tự Đức quở trách.

Dục Đức là ai?

Trong di chiếu truyền ngôi của Vua Tự Đức có đoạn viết: “Ưng Chân có tật ở con mắt nên hành vi mờ ám, sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt, chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có Vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây?”.

Cả ba vị trong Hội đồng phụ chính gồm Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đều dâng sớ xin Vua Tự Đức lược bỏ đoạn di chiếu không hay về Ưng Chân nhưng Vua không đồng ý. Vì ông muốn cảnh tỉnh Ưng Chân và mong người kế vị sẽ đi theo con đường thiện.

Sau khi Vua Tự Đức băng hà, Nguyễn Phúc Ưng Chân lên ngôi kế vị vào ngày 19/7/1883. Ngày làm lễ tấn tôn Ưng Chân lên ngai vàng, Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc di chiếu và đã đọc lược một số đoạn “không cần thiết” theo yêu cầu của Vua Dục Đức. Khi bị hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phát hiện ra, Trần Tiễn Thành bị truy tội làm giả di chiếu của tiên đế và bị xử nặng.

Dục Đức là ai?

Đúng 3 ngày sau, hai phụ chính đại thần dâng biểu lên Thái hoàng Thái hậu Từ Dụ, vạch ra 4 tội lớn của nhà Vua: “Sửa lại di chiếu của Vua cha; Có đại tang lại mặc áo màu; Tự tiện đưa giáo sĩ vào Hoàng Thành; Thông dâm với cung nữ của Vua cha.” Sau đó, vào 23/7/1883 Vua Dục Đức bị phế truất. Chỉ sau 3 ngày làm Vua, chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức đã trở thành kẻ trọng tội.

Kết cục phế đế

Sau khi bị phế truất, Dục Đức bị giáng xuống làm Thụy Quốc Công như trước. Ông bị giam ở Dục Đức đường, rồi tới Viện Thái Y, và cuối cùng là Ngục thất trong Kinh thành Huế. Tại đây, ông qua đời sau gần một tháng vì bị bỏ đói và không cho uống nước, hưởng dương 32 tuổi.

Sau khi mất, thi hài của Vua Dục Đức được gói trong một chiếc chiếu rách, do hai người lính mang đi chôn. Khi đi đến đầu làng An Cựu, ngoại thành Huế, chiếc chiếu có thi hài Vua bị đứt dây rơi xuống cạnh một khe nước cạn. Tin rằng đây là nơi yên nghỉ do Vua tự chọn, người ta chỉ chôn cất ông qua loa cho xong việc.

Xem thêm:   Gái Ngành Là Gì? 10 Điều Có Thể Bạn Chưa Từng Biết Về Gái Ngành

Ba ngày sau, vợ con của Dục Đức mới được thông báo để làm lễ chịu tang. Nấm mộ đất cạnh khe nước cạn, lại không người chăm sóc nên nhanh chóng tàn lụi. Có lần, một người ăn mày đói chết, gục trên mộ Vua. Dân ở đó không biết đây là mộ Vua nên đã chôn người ăn mày ngay trên mộ Vua.

Dục Đức là ai?

Năm 1889, con trai của Vua Dục Ðức là Nguyễn Phúc Bửu Lân lên ngôi Vua, lấy niên hiệu là Thành Thái. Ông lần theo dấu vết và lời kể lại để tìm mộ Vua cha. Tuy nhiên, khi đào lên, người ta phát hiện tới hai bộ hài cốt. Vì thế, Vua Thành Thái đành cho người ta lấp đất lại, xây nơi đó thành An Lăng. Vua Dục Đức được an táng cùng người ăn mày tại đây.

Dục Đức là ai?

An Lăng xây xong vào đầu năm 1890, nhưng chưa có điện thờ. Năm 1899, Vua Thành Thái cho xây thêm điện Long Ân bên phải lăng mộ để làm nơi thờ cúng Vua Dục Đức.

Năm 1892, Vua Dục Đức được Vua Thành Thái truy tôn là Cung Tông Huệ hoàng đế. Tuy nhiên, do bị phế truất, nên linh vị của ông không được đưa vào thờ trong Thế Tổ Miếu ở Đại Nội Huế như các vị Vua triều Nguyễn khác.

Gia quyến Vua Dục Đức

Vua Dục Đức có mấy vợ?

Vua Dục Đức có 8 bà vợ, nhưng sử sách chỉ nhắc nhiều đến bà Phan Thị Điều, là mẹ của Vua Thành Thái và Tuyên Hóa vương Nguyễn Phúc Bửu Tán. Những bà còn lại không rõ tên.

Vợ Vua Dục Đức là ai?

Vợ Vua Dục Đức là bà Phan Thị Điều (8/9/1855 – 27/12/1906). Bà là người Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Khi Vua Dục Đức bị phế truất, bà và hai con phải về quê sống. Sau này, Vua Thành Thái lên ngôi mới đón mẹ và các anh chị em vào cung. Sau khi mất, bà được truy phong làm Từ Minh Huệ Hoàng hậu.

Dục Đức là ai?

Vua Dục Đức có bao nhiêu con?

Vua Dục Đức có 19 người con, gồm 11 hoàng tử và 8 hoàng nữ. Ngoại trừ hoàng tử Thành Thái và Bửu Tán, những người con còn lại của Vua Dục Đức đều không rõ mẹ.

Con Vua Dục Đức là ai?

Con trai Vua Dục Đức gồm có:

  • Nguyễn Phúc Bửu Cương (22/12/1871 – 7/10/1876).
  • Nguyễn Phúc Bửu Trĩ (2/9/1872 – 1/10/1878).
  • Nguyễn Phúc Bửu Mỹ (24/11/1874 – 2/9/1877).
  • Nguyễn Phúc Bửu Nga (8/9/1875 – 14/11/1876).
  • Nguyễn Phúc Bửu Nghi (6/11/1876 – 9/4/1877).
  • Nguyễn Phúc Bửu Côn (22/11/1877 – 21/11/1880).
  • Nguyễn Phúc Bửu Lân (Vua Thành Thái) (14/3/1879 – 20/3/1954).
  • Nguyễn Phúc Bửu Chuẩn (9/2/1882 – 13/12/1884).
  • Tuyên Hóa vương Nguyễn Phúc Bửu Tán (1882 – 8/5/1941).
  • Hoài Ân vương Nguyễn Phúc Bửu Liêm.
  • Mỹ Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Lỗi (19/4/1884 – 20/5/1902).

Dục Đức là ai?

Con gái của Vua Dục Đức gồm có:

  • Mỹ Lương Trưởng công chúa Nguyễn Phúc Tôn Thụy (1872 – 1917).
  • Phúc Lâm Công chúa Nguyễn Phúc Nhàn Gia (? – 1925).
  • Nguyễn Phúc Như Tâm.
  • Nguyễn Phúc Thị Nghị.
  • Nguyễn Phúc Học Giá.
  • Nguyễn Phúc Mẫn Sự.
  • Nguyễn Phúc Thông Lư.
  • Tân Phong công chúa Nguyễn Phúc Châu Hoàn (1883 – ?).
Xem thêm:   Hồng Thất Công là ai? Chủ ‘cái bang ăn mày’ với 2 bí thuật thâm sâu

Dục Đức là ai?

Bài viết trên của Mas.edu.vn đã chia sẻ đến bạn thông tin về Dục Đức là ai và cuộc đời bi kịch của vị Vua thứ năm triều Nguyễn. Cập nhật Mas.edu.vn để theo dõi những tin tức mới nhất mỗi ngày nhé!

Trải qua hàng trăm năm lịch sử, câu chuyện về Vua Dục Đức – vị vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam – vẫn là một topic đầy tò mò và tranh cãi. Từ những dấu vết và tư liệu hiện còn lại, chúng ta càng khám phá được nhiều yếu tố về con người Dục Đức cũng như về một thời đại đen tối của lịch sử đất nước.

Dục Đức, tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, sinh vào năm 1829 và là con trai thứ nhất của vua Thiệu Trị. Ông đã đăng quang năm 1883 nhưng chỉ trị vì vỏn vẹn 3 ngày trước khi bị binh lính Pháp bắt giữ. Đây cũng là một trong những vụ việc tranh cãi nhất trong lịch sử Việt Nam.

Số phận bi thảm của vua Dục Đức chủ yếu xuất phát từ việc ông bị công bố là “tâm thần điên”, một quyết định đặt ra bởi triều đình nhà Nguyễn và người Pháp. Việc này có thực sự đúng hay không, chúng ta vẫn chưa thể kết luận chính xác. Có những người cho rằng Dục Đức thật sự bị tâm thần, trong khi lại có những người cho rằng đó chỉ là một trò đánh lạc hướng của triều đình để áp đặt quyền lực lên nhân dân.

Ngoài việc bị công bố tâm thần, Dục Đức còn gặp phải nhiều trọng trách và áp lực khi người Pháp càn quét thực dân hóa Việt Nam. Ông phải đối mặt với sự phản kháng thông qua các phong trào yêu nước và vấp phải sự kiểm soát nghiêm ngặt từ người Pháp. Việc bị bắt và giam cầm đi tù sau chỉ 3 ngày trị vì khiến Dục Đức trở thành biểu tượng cho sự bất công và bi kịch của nhà Nguyễn thời kỳ này.

Sau cái chết của Dục Đức, sự truyền thông và các phong trào yêu nước đã quyết liệt chỉ trích và phản đối việc xử lý của người Pháp đối với vị vua này. Sự việc này đã nâng cao ý thức dân tộc và tạo động lực cho các cuộc nổi dậy sau này trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp.

Tóm lại, dục đức không chỉ là một con người, một vị vua, mà còn là một biểu tượng tiêu biểu cho sự bất công và bi thảm của nhân dân Việt Nam vào thời điểm đen tối. Dục Đức đã trở thành một trường hợp đáng thương và cũng là một nguồn cảm hứng cho việc khẳng định quyền tự do và độc lập của dân tộc.

Cảm ơn bạn đã xem bài viết Dục Đức là ai? Xót thương ông Vua có số phận bi thảm nhất Việt Nam tại Mas.edu.vn bạn có thể bình luận, xem thêm các bài viết liên quan ở phía dưới và mong rằng sẽ giúp ích cho bạn những thông tin thú vị.

Từ Khoá Liên Quan:

1. Dục Đức
2. Vua Dục Đức
3. Cuộc đời bi thảm của Vua Dục Đức
4. Hồi ký về Vua Dục Đức
5. Vụ ám sát Vua Dục Đức
6. Số phận bi thảm của Vua Dục Đức
7. Nhà văn hóa Dục Đức
8. Vua cuối cùng của triều Nguyễn
9. Tại sao Vua Dục Đức bị ám sát?
10. Tiền thân và gia đình của Vua Dục Đức
11. Di sản văn hóa của Vua Dục Đức
12. Những tình huống khó khăn trong cuộc đời Vua Dục Đức
13. Nguyên nhân dẫn đến sự thống trị ngắn ngủi của Vua Dục Đức
14. Những tình tiết bí ẩn xung quanh cái chết của Vua Dục Đức
15. Dục Đức và sự thay đổi chính sách triều Nguyễn